Monday, July 31, 2023

TỰA

 

TỰA


Nói về quá trình thành lập và triển khai của Kinh điển thuộc hệ Bát Nhã(1), thì Đạo Hành Kinh 10 quyển của Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksha) có lẽ là bộ Kinh Bát Nhã cổ nhất, dịch vào thời Hậu Hán, xuất hiện vào năm 172(2). Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh, 10 quyển, gồm 29 phẩm, do Ngài Cưu Ma La Thập (Kumaràjiva) dịch vào đời Hậu Tần cũng xuất hiện sớm: Nội dung thuyết minh về các giáo pháp Bát nhã Ba la mật (các bản dịch khác của kinh nầy gồm: Kinh Đại Minh Độ Vô Cực 6 quyển, do Ngài Chi Khiêm dịch vào đời Ngô, thời Tam Quốc; Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Sao 5 quyển, do các Ngài Đàm Ma Tì và Trúc Phật Niệm cùng dịch vào đời Tiền Tần). Kế tiếp là Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa 27 quyển (hoặc 30 hoặc 40 quyển), gọi là Đại phẩm Bát Nhã, cũng do Cưu Ma La Thập dịch vào thời Hậu Tần: Nội dung cũng thuyết minh về các giáo pháp Bát nhã Ba la mật. Đây là bộ kinh căn bản nói về Bát Nhã Không Quán ở thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa (các bản dịch khác của kinh này là Kinh Quang Tán Bát Nhã, 10 quyển, thiếu nửa sau, do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn và Kinh Phóng Quang Bát Nhã, 20 quyển, do Ngài Vô La Xoa dịch vào đời Tây Tấn). Sau hết là Kinh Đại Bát Nhã của Ngài Huyền Trang dịch và các bộ Bát Nhã khác như Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật xuất hiện tiếp theo.

Trước Ngài Huyền Trang đã có một số Kinh Bát Nhã được dịch ra Hán văn như đã kể trên, nhưng vì chưa được đầy đủ nên Ngài Huyền Trang mới tổ chức dịch lại. Ngài Huyền Trang bắt đầu phiên dịch Đại Bát Nhã tại chùa Ngọc Hoa cung vào tháng Giêng năm Hiển Khánh thứ 5 (660) đời Vua Cao Tông nhà Đường đến tháng 10 năm Long Sóc thứ 3 (663) thì hoàn tất. Năm sau, Ngài thị tịch tại chùa Ngọc Hoa cung. Đó là một bản dịch đồ sộ gồm 24 tập, 600 quyển chia làm 16 hội, thuyết giảng tại bốn địa điểm là: 1. Núi Thứu Phong thuộc thành Vương Xá; 2. Lâm Kỳ Viên Cấp Cô Độc; 3. Cung trời Tha hóa tự tại và 4. Gần ao Cò trắng trong Tịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá. Đó một đại tùng thư gồm hầu hết Kinh điển thuộc hệ Bát Nhã.

Phải công nhận Đại Bát Nhã Ba La Mật (Mahaprajna-paramita-Sutra)(3), một bộ kinh vĩ đại, do Ngài Huyền Trang dịch, một công trình dịch thuật to lớn, nhưng lại trùng tụng(4) quá nhiều. Có những đoạn kinh cùng một ý tưởng hay cùng một giáo lý như nhau nhưng lp đi lp lại cả chục lần, có khi cả trăm lần như các pháp mầu Phật đạo... Do đó, việc luận giải sẽ gặp nhiều khó khăn.

Bản Việt dịch do Cố Trưởng lão HT Thích Trí Nghiêm thực hiện 600 quyển, dài hơn 7.000 trang đánh máy khổ lớn, không thể chép lại đúng nguyên văn trong khi luận giải được. Nếu để nguyên, bản Tổng luận trở nên quá dài, không ai có can đảm đọc tụng cả! Để tiện việc nghiên cứu, tu học, chúng tôi bắt buộc phải tóm lược. Đó cũng chính là công việc của Ngài Cưu Ma La Thập khi soạn dịch Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa (MHBNBLMĐ). Nhưng Ngài La Thập chỉ soạn dịch Hội thứ II mà thôi, còn chúng tôi phải tóm lược tổng cộng 16 Hội. Kinh văn quá dài, chắc chắn phải cắt xén, nhưng tự hứa sẽ cố trình bày đầy đủ những gì mà Bát Nhã muốn truyền đạt.

Cũng xin Quý vị độc giả đừng quá lo ngại về việc cắt xén này. Phần cắt xén nhiều nhất là Hội thứ I (400 quyển đầu), từ Hội thứ II trở đi giảm dần cho đến Hội thứ V. Từ Hội thứ VI cho đến hết Hội thứ XVI tức chấm dứt toàn thể các pháp hội ĐBN, gần như giữ nguyên. Quý vị có thể lấy bất cứ phẩm nào của Hội thứ I do chúng tôi tóm lược so chiếu với phẩm tương đương chưa tóm lược, quý vị sẽ thấy không khí gần như khác hẳn. Khác hẳn không có nghĩa là khác về nội dung mà là giảm bớt sự trùng tuyên làm cho chương cú của Kinh trở nên quá “loãng” hay quá “nặng nề” đối với lối tiếp thu của độc giả hiện đại. Chúng tôi chịu trách nhiệm về lời nói này.

Trong phần tựa Đại Bát Nhã, có thuật lại kinh nghiệm dịch thuật của Ngài Huyền Trang như sau: “Văn đã rộng lớn, người học thỉnh cầu Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang giản lược bớt; Pháp Sư hầu như muốn thuận theo ý của mọi người, giống như Ngài La Thập đã làm, cắt bỏ bớt những đoạn văn phiền phức trùng điệp. Khởi nghĩ như vậy rồi, đêm đến nằm mộng thấy có những cảnh tượng ghê sợ răn đe như thấy bay lên cao quá nguy hiểm, đi đến những chỗ hiểm hóc, hoặc thấy thú dữ bắt người v.v… run sợ toát mồ hôi mới thoát được. Khi tỉnh giấc, thuật lại các việc ấy cho những người yêu cầu biết, rồi sau đó y như kinh phiên dịch nguyên văn, không cắt xén thêm bớt gì cả. Đêm đến bèn thấy chư Phật Bồ Tát phóng hào quang nơi chặng giữa mày soi xúc thân mình, tâm ý vui thích. Pháp Sư lại thấy mình tay cầm đèn hoa cúng dường chư Phật, thấy bay lên tòa cao thuyết pháp, có nhiều người xoay quanh ngợi khen cung kính, lại thấy có kẻ đem hoa quả thưng diệu dâng biếu cho mình. Khi tỉnh giấc vui mừng chẳng dám cắt bỏ, nhất nhất đúng như bản chữ Phạn mà dịch”(5).

Câu chuyện của người xưa nhắc nhở hậu bối phải cẩn thận khi tóm lược kinh. Như thợ mộc giỏi, phải đo đạt trước rồi mới xẻ gỗ, cưa cắt, bào đục sau. Nhưng phải cưa cắt như thế nào để sản phẩm nhìn vừa đẹp vừa khéo? Muốn vậy phải đo đạt, cưa cắt thật khít khao. Mỗi khi xẻ gỗ, cưa cắt không đúng ni tất, thì phải bỏ. Chúng tôi chỉ là thợ vụng, nên đo đạt nhiều lần trước khi cắt. Đã cắt rồi thì không thể ráp nối lại nguyên vẹn như trước nữa! Công việc của người thợ mộc cũng giống như công việc của người thợ may không khác: Đo cắt để may y phục mà vụng về không đúng ni tấc, cắt vải sai thì phải bỏ, không thể ráp lại nguyên vẹn được!

Chiết giải kinh cũng thế: Trước hết là trình bày chính văn, nếu chính văn quá dài, thì phải tóm lược. Tóm lược, mà cắt xén quá nhiều thì còn gì là kinh văn. Vậy, phải cắt xén hay giản lược vừa khéo. Nhưng chỉ cắt xén, giản lược những gì gọi là dư thừa, trùng lập, phần cốt tủy vẫn phải giữ nguyên. Đó chính là phương châm của chúng tôi. Sai lệch một đường tơ đất trời nghiêng lệch, tội lỗi không thể nào tưởng tượng nổi! Có lẽ ai cũng nhớ trong Truyền Đăng Lục có kể câu chuyện một Pháp sư chỉ vì giảng nhầm câu “bất lạc nhân quả” với “bất muội nhân quả” mà bị đọa làm kiếp chồn 500 đời.

Thích nghĩa:

(1). Hệ Bát Nhã trong Đại Tạng Kinh Việt Nam tổng cộng có 41 bộ kinh, gồm 777 quyển theo Tuệ Quang Wisdom Light Foundation, gồm các bộ:

1. Đại Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0220, 600 quyển, (Đường Huyền Trang dịch)

2. Phóng Quang Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0221,20 quyển, (Tây Tấn Vô La Xoa dịch)

3. Quang Tán Kinh, mang thẻ số 0222, 10 quyển, (Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch)

4. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0223, 27 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)

5. Đạo Hành Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0224, 10 quyển, (Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch)

6. Đại Minh Độ Kinh, mang thẻ số 0225, 6 quyển, (Ngô Chi Khiêm dịch)

7. Ma Ha Bát Nhã Sao Kinh, mang thẻ số 0226, 5 quyển, (Tiền Tần Đàm Ma Tỳ cộng Trúc Phật Niệm dịch)

8. Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0227, 10 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)

9. Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0228, 25 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)

10. Phật Thuyết Phật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0229, 3 quyển, (Tống Pháp Hiền dịch)

11. Thánh Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa Nhất Bách Bát Danh Chân Thật Viên Nghĩa Đà La Ni Kinh, mang thẻ số 0230, 1 quyển, (Tống Thí Hộ đẳng dịch)

12. Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0231, 7 quyển, (Trần Nguyệt Bà Thủ Na dịch)

13. Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0232, 2 quyển, (Lương Mạn Đà La Tiên dịch)

14. Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0233, 1 quyển, (Lương, Tăng Ca Bà La dịch)

15. Phật Thuyết Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ Kinh, mang thẻ số 0234, 2 quyển, (Tống Tường Công dịch)

16. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0235, 1 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)

17. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0236a, 1 quyển, (Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch)

18. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0236b, 1 quyển, (Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch)

19. Kim Cương Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0237, 1 quyển, (Trần Chân Đế dịch)

20. Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0238, 1 quyển, (Tùy Cấp Đa dịch)

21. Phật Thuyết Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0239, 1 quyển, (Đường Nghĩa Tịnh dịch)

22. Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0240, 1 quyển, (Đường Bồ Đề Lưu Chí dịch)

23. Kim Cương Đảnh Du Già Lý Thú Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0241, 1 quyển, (Đường Kim Cương Trí dịch)

24. Phật Thuyết Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0242, 1 quyển, (Tống, Thí Hộ dịch)

25. Đại Nhạc Kim Cương Bất Không Chân Thật Tam Ma Da Kinh, mang thẻ số 0243, 1 quyển, (Đường Bất Không dịch)

26. Phật Thuyết Tối Thượng Căn Bổn Đại Nhạc Kim Cương Bất Không Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh, mang thẻ số 0244, 7 quyển, (Tống Pháp Hiền dịch)

27. Phật Thuyết Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0245, 2 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)

28. Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0246, 2 quyển, (Đường Bất Không dịch)

29. Phật Thuyết Liễu Nghĩa Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0247, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)

30. Phật Thuyết Ngũ Thập Tụng Thánh Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0248, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)

31. Phật Thuyết Đế Thích Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0249, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)

32. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh, mang thẻ số 0250, 1 quyển, (Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch)

33. Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, mang thẻ số 0251, 1 quyển, (Đường Huyền Trang dịch)

34. Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0252, 1 quyển, (Đường Pháp Nguyệt Trọng dịch)

35. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0253, 1 quyển, (Đường Bát Nhã cộng Lợi Ngôn đẳng dịch)

36. Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, mang thẻ số 0254, 1 quyển, (Đường Trí Tuệ Luân dịch)

37. Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, mang thẻ số 0255, 1 quyển, (Đường Pháp Thành dịch)

38. Đường Phạm Phiên Đối Tự Âm Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0256, 1 quyển, (Hán văn: Tây kinh, trích từ bản sao chép trên vách tường đá của chùa Đại Hưng Thiện. Từ Ân Hòa thượng phụng chiếu thuật lời TỰA)

39. Phật Thuyết Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0257, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)

40. Phật Thuyết Thánh Phật Mẫu Tiểu Tự Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0258, 1 quyển, (Tống Thiên Tức Tai dịch)

41. Phật Thuyết Quán Tưởng Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát Kinh, mang thẻ số 0259, 1 quyển, (Tống Thiên Tức Tai dịch)

42. Phật Thuyết Khai Giác Tự Tánh Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0260, 4 quyển, (Tống Duy Tịnh đẳng dịch)

43. Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0261, 10 quyển, (Đường Bát Nhã dịch).


Lưu ý: Theo Tuệ Quang Wisdom Light Foundation, tính theo thứ tự số thẻ có 43 bộ kinh thuộc hệ Bát Nhã. Nhưng không biết tại sao các nhà khảo cứu lại tính chỉ có 41 bộ mà thôi? Trong đây có nhiều bộ kinh có phẩm tựa và giáo nghĩa trùng hợp như kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật” hay “Tâm Kinh”, do nhiều tác giả khác nhau dịch. Cứ theo sự hiểu biết của chúng tôi, nếu muốn lấy các bộ kinh làm tài liệu Phật học và xếp loại để tiện việc tra cứu, thì cứ mỗi bộ kinh do một tác giả dịch, có đánh số thẻ, đã lưu trữ trong Đại tạng kinh thì nên xem là một bộ, như kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật” do Bồ đề Lưu Chi dịch có hai bản, có số thẻ là 0236a và 0236b. Đúng ra phải xem là hai bộ, mặc dầu cả hai bản dịch có tựa đề và nội dung giống nhau và cùng một dịch giả? Không biết các nhà khảo cứu xếp loại như thế nào về trường hợp này, nên mới xảy ra thắc mắc như trên? Nhiều Đại Tạng kinh khác lại tính là 44 bộ. Chúng ta sẽ không bị lẫn lộn về con số này, nếu chỉ cần biết số thẻ và tên kinh để tra cứu là đủ. Chúng tôi cũng lưu ý độc giả cố gắng nhớ tên kinh và danh tánh dịch giả. Vì sao? Vì trong số 41 bộ liệt kê trên, có một số các kinh được xem là tương đương với các Hội của Kinh Đại Bát Nhã mà quý vị cần phải tra cứu hay tham khảo nếu cần. Đọc tới quý vị sẽ rõ.

(2). Đạo Hành Bát Nhã do Chi Lâu Ca Sấm dịch tương đương với Bát Nhã Bát Thiên Tụng, hay Tiểu Phẩm Bát Nhã do Cưu ma La thập hoặc Phật Mẫu Bát Nhã do Thí Hộ và kinh rút ra từ quyển 538 đến quyển 555 của Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, (không có đặt tên, để tránh lẫn lộn với các kinh ngắn tương đương trên, chúng tôi tạm gọi kinh nầy là Tiểu Bản Bát Nhã (TBBN), do Phật thuyết ở Hội thứ IV. Xin quý vị độc giả ghi nhớ cho, vì chúng ta có rất nhiều cơ hội để thảo luận về bộ kinh nầy). Xét trên phương diện triết học hay tôn giáo tất cả những quan điểm cốt yếu (giáo lý hạnh quả, kỹ thuật tu trì, quán tưởng…) của Bát Nhã đều nằm trong đó. Nếu xét theo niên kỷ, Kinh Đại Bát Nhã xuất hiện sau các tiểu phẩm, nên một số học giả Phật học cho rằng Đại Bát Nhã triển khai các giáo lý và triết học Tánh Không từ các tiểu phẩm kể trên.

(3). Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán, tổng cộng có tới 600 quyển, khoảng 167.300 bài tụng (sloka) tính theo Pháp Uyển Châu Lâm quyển 100 và Khai Nguyên Thích Giáo Lục quyển 11. Nếu diễn dịch Kinh ĐBN ra chữ thì tổng cộng hơn 5 triệu chữ. (Mỗi bài tụng gọi là sloka gồm 4 hàng, mỗi hàng gồm 8 chữ. Vậy, 1 sloka có 32 chữ; 32 chữ nhân cho 167.300 sloka bằng 5.353.600 chữ). Nhưng theo nguyên bản bằng chữ Phạn hiện còn thì Đại Bát Nhã Ba La Mật có tới 200.000 kệ tụng. Nếu tính ra bằng chữ thì tổng cộng có tới 200.000 X 32 bằng 6.400.000 chữ.

(4). Sự trùng tụng cốt ý là gội sạch cảm quan và ý thức dễ dãi của những người đang hành trì Bát Nhã để tâm chứng bằng trực giác mà không qua trung gian của cảm quan và ý thức hay lý luận nhị nguyên. Thiền sư D.T. Suzuki giải thích sự trùng tụng của Bát Nhã như sau: “Một trong những lý do tại sao các kinh này thường lặp lại quá nhiều, trùng tuyên quá nhiều, làm mệt óc các độc giả tân tiến như chúng ta, đấy là do sự kiện rằng tất cả các Kinh điển Đại thừa, nhất là Bát nhã Ba la mật, không cốt ý gợi lên những sự dễ dãi của suy luận, tức sự lãnh hội bằng trí óc; nó gợi lên một lối lãnh hội khác, mà chúng ta có thể gọi là bằng trực giác. Khi Bát nhã Ba la mật được đọc bằng tiếng Sanskrit, tiếng Trung Hoa hay tiếng Tây Tạng, không cố gắng lượm nhặt ý nghĩa luận lý của nó, chỉ một mực thành tâm và quyết định đi ngang qua những khối trùng lặp, con mắt Bát Nhã - Tunhan - dần dần mở rộng và càng lúc càng nhìn thấu suốt hơn. Cuối cùng, rồi sẽ thấy, bất kể những mâu thuẫn, những tối tăm, những trừu tượng, huyễn hoặc, sẽ thấy sự thể trong suốt lạ lùng vén mở “mặt kia cùng với mặt này”. Đây là sự phát khởi của Bát Nhã và sự học tập Bát nhã Ba la mật sâu xa. Nơi đó là chỗ bí mật của sự tụng đọc kinh Bát Nhã”.

Tuy biết như vậy, nhưng cũng tùy chỗ, tùy thời thôi! Phần trùng tụng nhiều nhất là các pháp mầu Phật đạo. Hầu như bất cứ, Hội nào, Phẩm, Phần nào cũng lặp đi lặp lại các pháp này. Chúng tôi chỉ giản lược thay vì liệt kê tất cả “các pháp mầu Phật đạo hay còn gọi là 81 khoa danh tướng Bát Nhã” hàng trăm, hàng ngàn lần trong toàn đại phẩm.

(5). Trích lời trần thuật của Ngài Huyền Trang ở đầu quyển ĐBN.