Fr: Loan Phan* Huy Nguyen
Nguyễn Tường Thiết: Mối tình của đôi ta
Lời Tòa Soạn.- Sau đây là bài nói chuyện của nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con út của nhà văn Nhất Linh trong buổi Ra Mắt cuốn sách "Tự Lực Văn Đoàn và các Cây Bút Hậu Duệ" tổ chức vào ngày hôm qua 9 tháng 11 năm 2019 tại thành phố San Jose, California.
Kính thưa quý vị,
Cách đây khoảng mấy tuần lễ tôi nhận được một cú điện thoại của anh
Nguyễn Hùng Tâm, trưởng nam của ông Nguyễn Hùng Trương, tức ông chủ nhà
sách Khai Trí ở Sài Gòn trước năm 1975. Anh Tâm mời tôi xuống San José
nói chuyện trong buổi Ra Mắt Sách này, cuốn sách “Tự Lực Văn Đoàn và các cây bút Hậu Duệ”
mà anh là người đứng ra tổ chức và bảo trợ. Tôi toan từ chối vì với
tuổi xấp xỉ 80 tôi rất ngại phải đi xa, nhưng tôi nghĩ đến cái công của
ông Khai Trí đối với văn học miền Nam Việt Nam, tôi nhận lời.
Tôi có một mối giao tình đặc biệt với ông Khai Trí, thân phụ của anh
Tâm. Trước khi thân phụ tôi, nhà văn Nhất Linh, qua đời năm 1963, ông cụ
có ủy thác cho tôi trông nom hai nhà xuất bản Đời Nay và Phượng Giang
và quyết định xuất bản những tác phẩm của ông cụ. Với ủy thác ấy tôi đã
liên lạc với ông giám đốc nhà sách Khai Trí để phối hợp việc tái bản
không những sách của ông cụ tôi mà là sách của những tác giả khác trong
Tự Lực Văn Đoàn. Nhu cầu tái bản sách TLVĐ rất cao vì TLVĐ nằm trong
giáo trình giảng dậy môn Việt văn bậc trung học, nên tôi liên lạc với
ông Khai Trí hầu như thường xuyên và kéo dài suốt 10 năm cho đến tận
ngày Cộng sản cưỡng chế miền Nam.
Trước khi nói về một vài kỷ niệm vui vui của tôi với ông Khai Trí tôi
cũng xin phép được thay mặt tất cả quý vị có mặt ở đây để ngỏ lời tri ân
ông Khai Trí. Trong suốt 20 năm giữa hai cuộc di cư 1954 và di tản 1975
trong khi nền văn học miền Bắc chỉ là một con số không to tướng thì ở
miền Nam tự do chúng ta được thừa hưởng một nền văn học mà theo thiển ý
của tôi, rực rỡ và đa dạng không thua gì thời đại Tự Lực Văn Đoàn vào
thập niên 1930. Trong sự nở rực của 20 năm văn học miền Nam VN ông Khai
Trí, trong vai trò hỗ trợ và phổ biến những công trình văn hoá, đã đóng
góp một phần không nhỏ.
Trong suốt 10 năm liên lạc với ông Khai Trí tôi có khá nhiều kỷ niệm với
ông. Nhưng kỷ niệm tôi ghi nhớ nhất là hôm ông tiết lộ với tôi điều bí
mật này: nhà sách Khai Trí số 62 đường Lê Lợi còn là địa điểm hẹn hò của
không biết bao nhiêu những cặp trai gái yêu nhau vào những thập niên
50, 60 và 70 của thế kỷ trước.
Nếu trong số các quý vị ở đây đã có ai một thời dùng nhà sách này làm
chỗ hẹn hò và đã đinh ninh đó là nơi không bị ai chú ý thì quý vị có thể
lầm to. Ông Khai Trí có lần tâm sự với tôi: “Một trong những tiêu khiển
rất thú vị và thâm trầm của ông là ông đã dùng khá nhiều thì giờ đứng
quan sát gian hàng sách đông đảo của ông, không phải để rình bắt những
tay ăn trộm sách, mà là để phát hiện những cặp tình nhân kín đáo dùng
nhà sách của ông làm chỗ hẹn hò”.
Kính thưa quý vị,
Đối với những quý vị ở trong hạn tuổi từ 70 cho đến 90 và đã từng ở Sài
Gòn trong thời niên thiếu thì có lẽ kỷ niệm êm đẹp nhất trong đời là
những buổi chiều cuối tuần đi bát phố Sài Gòn, bên cạnh người yêu nữa
thì lại càng tuyệt, chúng ta thả bộ trên đường Lê Lợi, ghé thăm nhà sách
Khai Trí, ăn kem ở quán Mai Hương, uống cà phê ở La Pagode rồi thả mình
trong máy lạnh của những rạp xi nê Rex, Eden hay Vĩnh Lợi.
Hôm nay, trong không khí hồi tưởng đầy hoa mộng ấy, tôi xin kể với quý
vị một câu chuyện tình. Một chuyện tình của thế hệ trước, thế hệ tiền
bối. Đó là chuyện tình của thân phụ tôi, nhà văn Nhất Linh. Không phải
là chuyện tình trong tiểu thuyết của Nhất Linh như Dũng và Loan trong
Đôi Bạn, Trương và Thu trong Bướm Trắng, Siêu và Mùi trong Xóm Cầu Mới
hay Thanh và Ngọc trong Dòng Sông Thanh Thủy. Mà là chuyện tình có thực
của Nhất Linh với một người đàn bà mà ông rất yêu quý, người đàn bà ấy
ngẫu nhiên lại là mẹ của chúng tôi.
Tại sao tôi lại kể chuyện tình giữa bố mẹ tôi?
Chắc có người nghĩ làm gì có tình yêu trong hôn nhân ở thế hệ tiền bối
của chúng ta. Và nếu có, chắc cũng chẳng có gì hay ho để kể lại. Với
quan niệm thông thường của xã hội ta thời đó thì thân phận của bà Nhất
Linh chẳng qua cũng chỉ như thân phận “nuôi một đàn con với một chồng” của bà Tú Xương mà thôi.
Nhưng thật sự khác hẳn. Trước hết ta hãy xem giây phút trước khi nhắm
mắt Nhất Linh đã để lại những lời chăng chối gì với người bạn đời của
ông:
Mình,
Mối tình của đôi ta trong bao năm đẹp đẽ lắm rồi không mong mong ước gì hơn nữa.
Anh,
Nhất Linh 7-7-1963.
Hai mươi chữ này mới đích thực là những dòng chữ viết sau cùng của nhà
văn Nhất Linh trước khi lìa đời, chứ không phải là bẩy mươi mốt chữ
trong bản di ngôn chính trị nổi tiếng của ông: “Đời tôi để lịch sử xử”.
Trong lời vĩnh biệt Nhất Linh dùng chữ “Mình” để xưng hô với vợ. Chữ
“mình” mang nhiều ý nghĩa. Mình có thể là “em”, mình cũng có thể là
“anh”, mình cũng có thể là “chúng ta”. Mình bao hàm ý nghĩa vợ chồng
“đôi ta là một”. Và trong bao nhiêu năm “đôi ta” ấy đã gắn bó nhau bằng
một “mối tình”, một mối tình “đẹp đẽ” đến độ “không còn mong ước gì hơn
nữa”.
Nhất Linh có nói quá không khi ông viết những lời sau cùng này?
Tôi tin rằng ông đã không nói quá. Tôi tin là ông thành thật. Tôi tin
thế bởi vì ông quan niệm tình yêu hôn nhân khác với đa số chúng ta. Nó
cao hơn quan niệm thông thường. Quan niệm mà theo tôi gần với câu sau
đây của nhà văn Pháp Saint-Exupéry: “yêu nhau không phải là nhìn nhau mà
là cùng nhìn về một hướng”.
Cha mẹ tôi lấy nhau năm 1925. Trước khi lấy nhau cậu trai 19 tuổi giao
ước ngay với cô gái 18 tuổi: “Mỗi người có một bổn phận: anh có bổn phận
đối với xã hội, em có bổn phận đối với gia đình”. Tôi chưa thấy một cặp
vợ chồng nào mà sự giao ước ban đầu lại được lại được cả đôi bên tôn
trọng lâu dài như thế. Suốt cuộc đời tôi chứng kiến cảnh cha mẹ tôi sống
xa nhau. Cha tôi hầu như lúc nào cũng sống xa gia đình, ông lo chuyện
xã hội, chuyện văn hoá, chuyện đất nước. Ông sống bôn ba nhiều năm bên
Trung Hoa. Mẹ tôi một mình gánh trách nhiệm gia đình, bà buôn cau, lấy
tiền nuôi đàn con gần 10 đứa. Không bao giờ tôi nghe mẹ tôi than vãn về
chuyện cha tôi thường xuyên vắng mặt, nếu có ai hỏi, mẹ tôi chỉ nhẹ
nhàng nói: “anh ấy tuổi con ngựa, không thể ngồi yên một chỗ được”. Cũng
vì thường xuyên phải sống xa nhau nên những thời gian hiếm hoi được
sống chung cả hai đã tạo cho nhau những ngày chung sống trở thành môt
chuỗi “những ngày diễm ảo”.
Vừa lấy nhau, tuần trăng mật chưa hết mặn nồng, mẹ tôi đã chịu cảnh chia
ly đầu tiên: cha tôi, cậu thanh niên 20 tuổi, khích động trước cái chết
năm 1926 của nhà ái quốc Phan Chu Trinh, tháng 3 năm ấy ông bỏ trường
Mỹ Thuật, từ Hà Nội đáp xe lửa vào Sài Gòn, tham dự đám tang nhà cách
mạng. Trên chuyến xe lửa xuyên việt, khi ngang đèo Hải Vân ông làm bài
thơ sau đây tặng cô vợ mới cưới:
Đèo Hải Vân mây trời man mác
Bến Lăng Cô bãi cát trắng phau
Buồm ai thấp thoáng về đâu
Phiêu lưu hồ hải thêm sầu lòng ai?
(Nhất Linh, 3/1926)
Vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh chàng trai Nguyễn Tường Tam bị Pháp
lùng bắt, ông trốn sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và tìm đường du học.
Năm sau 1927 ông Đi Tây.
Trong thập niên 1930, Nhất Linh ra báo Phong Hóa & Ngày Nay, thành
lập Tự Lực Văn Đoàn và sáng tác rất mạnh. Ông hoàn thành gần 10 tác
phẩm. Trong thập niên đó bà Nhất Linh cũng sinh gần 10 người con. Mẹ tôi
nói đùa: “Cứ mỗi lần mẹ thai nghén một đứa con thì bố cũng thai nghén
một tác phẩm”. Rồi mẹ tôi nói thêm: “Mỗi lần bố viết xong và xuất bản
một cuốn tiểu thuyết, cũng như sau khi mẹ sinh đẻ một đứa con, thì dù mẹ
có bận rộn buôn bán đến đâu đi nữa bố cũng buộc mẹ phải bỏ hết để sống
với nhau riêng biệt một thời gian bên bãi biển Sầm Sơn”. Như vậy thì nội
trong thập niên 1930 bố mẹ tôi đã có với nhau gần 10 cái “honeymoon”.
Trong thập niên 1940 con người nghệ sĩ Nhất Linh nhường bước cho người
chiến sĩ Nguyễn Tường Tam. Dũng, nhân vật tiểu thuyết trong Đôi Bạn,
Đoạn Tuyệt lôi phăng tác gỉa Nhất Linh đi làm cách mạng! Nhất Linh lập
đảng chống Pháp, chống Cộng, lập chiến khu, tham gia chính phủ Liên Hiệp
Kháng Chiến với chức Bộ Trưởng Ngoại Giao, rồi bôn ba sang Trung Quốc.
Trong suối 10 năm con người cách mạng không sáng tác một cuốn tiểu
thuyết nào. Người bạn đời của ông cũng ngừng sinh đẻ. Thảo nào sinh năm
1940, tôi là đứa con út trong nhà.
Trong thập niên 1950, từ Trung Hoa về nước năm 1951, Nhất Linh theo lời
khuyên nhủ của vợ, tuyên bố không làm chính trị. Ông trở lại đời văn sĩ.
Từ Hà Nội ông vào Sài Gòn năm 1952, kéo theo người con út là tôi đi
theo ông, năm sau ông lên Đà Lạt sinh sống, cũng lại kéo tôi đi theo
nữa. Nhất Linh tương đối sống an bình trên Đà Lạt. Ông chơi lan, thổi
hắc tiêu, mua đất ở Fim Nôm, lập nhà bên bờ suối Đa Mê. Chúng tôi giữ
rất nhiều hình ảnh của ông trong thời gian này, trong đó có bức hình
chụp bố mẹ tôi tươi cười bên dòng suối Đa Mê, mẹ tôi nằm trên võng, bố
tôi đứng bên. Tôi rất quý bức ảnh này vì nó là bức duy nhất tôi thấy
Nhất Linh cười. Trong bao nhiêu năm tôi tự hỏi tại sao tất cả những bức
hình tôi giữ Nhất Linh đều có gương mặt trầm lắng, khắc khổ, chỉ trừ mỗi
bức ảnh này là cười tươi. Mãi gần đây tôi mới hiểu lý do vì sao.
Mấy tháng trước một nhà báo ở Việt Nam, anh Nguyễn Vĩnh Nguyên, gửi tặng
tôi một quyển sách do anh viết nhan đề “Đà Lạt, một thời hương xa”.
Cuốn sách dành hẳn một chương “Tiếng hắc tiêu trên đồi thông” nói về ông
cụ tôi trong thời gian ông sống ở Đà Lạt với khá nhiều hình ảnh, tư
liệu quý giá. Trong số đó có bức ảnh với lời chú thích: “Ông bà Tam tại
suối Đa Mê. Ảnh: Vũ Hà Tuệ sưu tầm”. Bức ảnh chụp bố mẹ tôi bên chiếc
võng, tương tự như bức ảnh tôi có, nhưng đặc biệt là ghi thêm hàng chữ
viết tay của bố tôi: “Thân tặng anh chị Gioãn. Bên giòng Đa Mê. Kỷ niệm Lễ Vàng 32 năm. Nhất Linh”.
Tôi thắc mắc: Không biết Lễ Vàng là gì? Bức ảnh chụp năm 1957. Tôi làm
con tính: 1957-32 = 1925. Đúng boong! Năm 1925 là năm bố mẹ tôi lấy
nhau. Hoá ra ngày chụp ảnh cũng là ngày kỷ niệm 32 năm “wedding
anniversary” của bố mẹ tôi. Thảo nào mà cả hai bức hình trông ông bà
tươi rói. Hôm đó bố tôi mời mẹ tôi và các bạn bè (trong số có bác Lê
Đình Gioãn, người bạn thân của ông cụ) từ Sài Gòn lên Fim Nôm để ăn mừng
“ngày kỷ niệm cưới” trong rừng, bên dòng suối thơ mộng.
Tôi đã tưởng sự khám phá bức ảnh này chấm dứt cuộc hành trình 60 năm đi
tìm Nhất Linh của tôi. Nhưng không. Chỉ mới cách đây 55 ngày, một ngạc
nhiên khác xẩy đến cho tôi. Cũng trong buổi Ra Mắt cuốn sách “TLVĐ và các cây bút hậu duệ”
tổ chức tại trường Đại Học UC-Long Beach, Nam California, ngày 15 tháng
9 năm 2019 vừa qua, một thiếu nữ tôi không quen biết tiến lại gần tôi
và trao cho tôi một món quà bất ngờ. Cô ta nói: “Thưa Bác, cháu giữ
trong tay tài liệu này cũng khá lâu nhưng không dám gửi bác vì sợ thất
lạc. Hôm nay nghe nói bác nói chuyện trong buổi Ra Mắt Sách này, cháu
tới đây với mục đích trao tận tay món quà này cho bác”. Món quà là một
bài thơ viết tay của chính Nhất Linh. Bài thơ nhan đề “Buồm giục viễn
du” viết trên một tờ giấy pelure mỏng mà thời gian đã ngả sang màu vàng
úa. Cuối bài thơ, trên chữ ký Nhất Linh, có ghi thời gian và địa điểm
sáng tác: Trên bãi biển, cuối Thu 1940.
Tôi sinh ngày 23 tháng 10 năm 1940. Như vậy tuổi của bài thơ ngang với
tuổi đời của tôi, xấp xỉ 80. Tôi nhớ tới lời của mẹ tôi: “Mỗi lần bố
viết xong và xuất bản một cuốn tiểu thuyết, cũng như sau khi mẹ sinh đẻ
một đứa con, thì dù mẹ có bận rộn buôn bán đến đâu đi nữa bố cũng buộc
mẹ phải bỏ hết để sống với nhau riêng biệt một thời gian bên bãi biển
Sầm Sơn”. Không còn nghi ngờ gì nữa, bài thơ này bố tôi làm ở Sầm Sơn,
ngay sau khi tôi sinh ra đời.
Nhìn tờ giấy với bài thơ đã úa màu thời gian tôi cảm động và bâng khuâng.
Bây giờ tôi có thể yên tâm khép lại cuộc hành trình của tôi đi tìm Nhất
Linh. Vì tôi đã tìm ra lời giải đáp tôi đặt ra cho chính mình: Nhất Linh
đã thật sự nghĩ gì trong giây phút cuối cùng trước khi ông nhắm mắt?
Ông đã nghĩ đến mẹ tôi, đến bao kỷ niệm êm đềm chung sống giữa hai người, ông đã nghĩ đến “mối tình của đôi ta trong bao năm đẹp đẽ lắm rồi, không mong mong ước gì hơn nữa..”.
Xin cám ơn quý vị và xin kính chào quý vị.
Nguyễn Tường Thiết