Friday, July 15, 2016

TƯỞNG NHỚ MỘT SỐ THI,VĂN NGHỆ SĨ MIỀN NAM TƯ DO

Mưa Cầm, Gió Bắt, Thép Đợi, Gang Chờ 
                                                                       Ho​à​ng Hải Thủ​y
  Nữ nghệ sĩ HỒ ĐIỆP            
 Một người trong số những nghệ sĩ của  Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa từ trần sau Ngày 30 Tháng Tư 1975 ít được người đời nhắc đến  nhất là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp, giọng ngâm Thơ tuyệt vời của Ban Thi Văn Tao Ðàn, Ðài Phát Thanh Quốc Gia VNCH.
 Không phải vì vô tình mà người ta không nhớ, không thương những người đã khuất như  Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp. 

Trong những năm u ám sau 1975 người Sài  Gòn chết thảm quá nhiều, người chết trong tù ngục  ​cộ​ng sản, người chết trên biển, người  chết trong rừng, nhìn đâu cũng thấy tang tóc, đau thương, những người chưa chết thần hồn  và trái tim tan nát, họ thấy cuộc sống của họ không biết còn mất lúc nào, người ta không còn tinh thần để nhớ, để thương những người  mất tích.
 Nữ  nghệ sĩ Hồ Ðiệp  đi vượt biên đêm nào, tháng nào, năm nào? Chắc chỉ có thân nhân của  bà được biết.
Nữ nghệ sĩ đi và mất tích. Thân xác Hồ Ðiệp từ lâu rồi nằm dưới đáy biển Ðông.
Sáng nay, một sáng Tháng Bẩy ở Xứ Người, tôi trái tim sầu muộn, tưởng nhớ  những
  văn nghệ sĩ Sài Gòn đã giã từ dương thế kể từ sau Ngày Oan Nghiệt 30 Tháng Tư 75.

Người Thứ Nhất tôi tưởng nhớ hôm nay là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp.
 Năm 1960 yên bình trong một cuộc họp mặt của một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, có Vũ  Hoàng Chương, Hồ Ðiệp, Mặc Thu.

Trước năm 1954, ở Hà Nội, Nhà Văn Mặc Thu viết hai tác phẩm "Gang Thép Ðợi Chờ" và "Bát Cơm, Bát Máu."
Thi bá Vũ Hoàng Chương làm hai câu Thơ tặng Hồ Ðiệp, Mặc Thu;
 Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
 Thép đợi, gang chờ xót  Mặc Thu.
 Hôm nay 50 năm sau buổi chiều xưa Thi bá  làm hai câu "Mưa cầm, gió bắt, thép đợi, gang chờ..,"  tôi, kẻ mất nước sống
 buồn những ngày thừa ở xứ người, tôi, cánh bướm già sống sót qua cuộc mưa cầm, gió bắt dài đến 20 mùa lá đổ ở Sài Gòn, tôi không có thép, có gang gì cả mà nếu có thì cũng không thép đợi, gang chờ mà thép mòn, gang rỉ, nhớ những ngày xưa và những người nay không còn  nữa, cảm khái tôi tiếp hai câu của Thi bá, làm thành:
Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
 Ðiệp bay ra biển sương mù,
 Có về đâu nữa, đất Hồ ngàn năm!
 —–
 LÊ XUYÊN , Chú Tư Cầu
 Giữa Sài Gòn dâu biển  tang thương
 Vỉa hè Bà Hạt thuốc lá lẻ.
 Nguyệt Ðồng Xoài cùng Vợ Thầy Hương
 Bỏ Rặng Trâm Bầu, sang Mỹ, lấy Mỹ.
 Cu ky trong Vùng Bão Lửa
 Chú Tư Cầu đi đâu, về đâu?
 Từ 1960  với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay Chú Tư Cầu thành công, nổi tiếng ngay, Lê Xuyên  viết thật đều, thật nhiều, tiểu thuyết  được in thành sách cũng thật nhiều.
 Trong bài thơ có tên nhũng tiểu thuyết của Lê  Xuyên được tái bản ở Hoa Kỳ:
 Nguyệt Ðồng Xoài, Vợ Thầy Hương, Rặng Trâm  Bầu, Vùng Bão Lửa.
 Sau năm 1975, qua 20 mùa Sài Gòn mưa nắng, ngồi bán thuốc  lá lẻ trên vỉa hè đường Bà Hạt-Ngô Quyền,
 từ 5 giờ sáng đến 11 giờ đêm, Chú Tư Cầu Lê  Xuyên giã từ dương thế năm 2002.  ----
 
Vô  đề, Vô danh, Vô lọai
 Vạc bay rã cánh cuối trời
 Diễm Xưa chẳng trọn một đời thủy chung.
 Ðá buồn, biển nhớ mịt mùng
 Âm cung tiếng phản, tiếng thùng. Thế thôi!

-----
 VŨ HOÀNG CHƯƠNG
 Một mảnh hồng tiên trĩu ngón tay
 Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.
 Anh vẫn Hoàng Chương vàng với ngọc,
 Trần ai nào lấm được trời mây.
 Người về ngôi cũ, Thơ trầm Nhạc
 Tàn lửa hồng hoang, khói Mái Tây.
 Cười vang một tiếng, tan tinh đẩu
 Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.

 Bị bắt tù Tháng Ba năm 1976, đến Tháng 10, 1976 Thi Bá Vũ Hoàng  Chương được trở về nhà ở Khánh Hội,
 Thi Bá qua đời chừng sáu, bẩy ngày sau khi về  nhà.
------
BÙI GIÁNG 

Lá cồn hay lá hoa cồn?
Tồn liên tồn vẫn liên tồn bấy lâu.
Hỏi Quê, rằng biển xanh dâu.
Hỏi Thơ, rằng mộng ban đầu vấn vương.
Em về rũ yếm mù sương
Ngàn năm châu chấu vẫn thương cào cào.
Mân-rô ơi, có đêm nào
Mồ anh em hé Ðộng Ðào suối tuôn.
Lá cồn hoa cũng lên cồn
Mười hai con mắt liên tồn mười hai.
Nghe nói  Tập Thơ LÁ HOA CỒN của Bùi Giáng xuất  bản năm 1968 được Thi Sĩ tác giả đặt tên là LÁ CỒN.

Quí vị biên tập trong nhà xuất Bản – tôi không nhớ là  Nhà An Tiêm hay Nhà Lá Bối – thấy cái
tên LÁ CỒN.. kỳ kỳ sao đó nên đổi  là LÁ HOA CỒN. Từ 1970 đến nay  không thấy LÁ HOA CỒN được tái bản.
 Hơn 40 mùa thu xưa tôi đọc LÁ HOA  CỒN, thấy câu Thi sĩ kể trong một đêm mà:Cồn lê lên miệng đến hai, ba lần…
 Tôi nghĩ:
 Một đêm cồn lê lên miệng hai lần  may ra còn sống được, một đêm mà cồn lê lên miệng  đến ba lần..!  Chắc chết quá!
 Một trong số hai, ba Giai Nhân đương thời được Thi sĩ ca  tụng nhan sắc và tỏ tình yêu là Cô Ðào Marilyn
 Monroe. Thi sĩ từng ước mơ sau khi ông chết, ông sẽ cảm động lắm  nếu ông được Người Ðẹp Marilyn Monroe đến
 đái trên mồ ông.
 Năm 1970 Chủ nhiệm nhật báo SỐNG Chu Tử mời Thi sĩ Bùi  Giáng viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông đăng mỗi  ngày trên Nhật Báo Sống. Tôi không nhớ tên truyện, chỉ nhớ Tiểu Thuyết Gia Bùi Giáng viết lọai truyện võ hiệp Trung
 Hoa, các đại hiệp, nữ hiệp thi triển võ công, đánh kiếm..vv.. Trong truyện ông cho  nam nữ nhân vật nói đi, nói lại rất nhiều lần những tiếng "liên tồn, tồn liên."  Truyện của ông  gần như ngày nào, trang nào cũng có hai tiếng ấy.

Như: Làn môi hồng của nàng nở nụ cười tồn liên. Nàng thu kiếm lại, chắp tay, dịu dàng nói: – Cám ơn Ðại hiệp đã  có nhã ý liên tồn.
Sau cuộc  biển dâu, Thơ Bùi Giáng vẫn có những  tiếng "liên tồn, tồn liên" không khác gì Thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn trước 1975.
Ðây là vài câu trích trong thi phẩm Mười Hai Con Mắt, xuất bản năm 2000:
Chuyện Chiêm bao, Mười Hai  Con Mắt.
Mộng ảo liên tồn vô mịch xứ
Phù du liêu lạc khởi năng kiêu.

Ðêm nằm  thao thức tới bình minh
Nửa khóc, nửa cười quỉ hóa tinh. 

Ú ớ liên tồn vi diệu ngữ
Ậm ừ tục tiếp quái quỉ  thanh.

Gặp Em
Gặp Em  ngồi tựa gốc cây
Hỏi Em có biết chiều nay mấy giờ
 Mưa nguồn đổ xuống trang thơ
Lá hoa cồn lũng bất ngờ chịu chơi…
 —
 NGUYỄN MẠNH CÔN
 Lính Nhẩy Dù lâm nạn ba người,
 Nhà Văn lâm nạn một mình thôi.
Sông Rây nước chẩy, mây trôi.
Nhớ về Xuyên Mộc, bồi hồi thương Anh.
 
Nhà Văn  Nguyễn Mạnh Côn viết những tác phẩm Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Ðem Tâm Tình Viết
Lịch Sử, Kỳ Hoa Tử, Tình Cao Thượng, Mối Tình Mầu Hoa Ðào, Hòa Bình.. Nghĩ gì, Làm gì? 

Tháng Ba năm 1976 ông bị bọn Công An Cộng Sản Thành Hồ bắt giam. Năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn tuyệt thực phản đối việc ông bị cầm tù quá lâu. Bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước, Nhà  Văn chết thảm trong trại tù Xuyên Mộc.
 Sông Rây chẩy qua vùng rừng bao quanh Trại Tù Khổ Sai  Xuyên Mộc, Bà Rịa. Người Tù Xuyên Mộc những
 năm 1978, 1979 có câu:
 Bao giờ Rừng Thác hết cây
 Sông Rây hết nước thì đây mới về.
 Cùng sống  và chịu cực khổ với Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn ở Trại Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 là
Duyên Anh, Ðằng Giao, Hồ Hữu Tường. Năm 1983 gặp lại nhau sau những  ngày tù tội, Duyên Anh đọc cho tôi nghe
 câu "..Sông Rây hết nước.." Tôi không  nhớ đúng tên Rừng trong câu thơ. Có thể không phải là Rừng Thác.
 Bao giờ Rừng Thác hết cây,
 Sông Rây hết nước thì đây mới về.
-----

 DƯƠNG HÙNG CUỜNG 
Chém cha bọn Cộng trâu bò
Cà Kê Dê Ngỗng nó cũng cho đi tù.
Phi trường đèn tắt, điện lu
Lái Thiêu Dê Húc, Ðạo Cù Paris.
 Dương  Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, một thời  giữ mục Cà Kê Dê Ngỗng trên Tuần báo CON ONG.

Là sĩ quan, Dương Hùng Cường đi tù khổ sai đến năm 1979. Năm  1980 DH Cường liên lạc được với Trung Tá
 Không Quân Trần Tam Tiệp ở Paris. Trước năm 1975 TTTiệp thường có Thơ Khôi Hài đăng trên
 Tuần báo CON ONG với bút hiệu Ðạo Cù.  Khi ấy ông họat động trong Hội Văn Bút  Quốc Tế, ông làm được nhiều việc giúp đỡ
 một  số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cả về tinh thần  và vật chất. 

Năm 1984  Dương Hùng Cường bị bắt vì tội "viết  bài gửi ra nước ngoài". 
Năm 1986 Cường chết trong một sà-lim ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng  Lưu, Sài Gòn. Bị nhốt một mình  trong sà-lim, Cường chết trong đêm. Bọn Công An Thành Hồ đưa xác Cường về Nhà Xác Nhà Tù Chí  Hòa cho bọn gọi là bọn Pháp Y Sĩ mổ xẻ tanh  banh,  rồi gọi vợ con Cường đến Nhà Xác Chí  Hòa nhìn mặt Cường lần cuối, chúng không cho  đem xac Cường về nhà mà cho ngay
 vào quan tài, cho xe của Nhà Tù đưa lên chôn ở một nghĩa trang trên Lái Thiêu.
 Một trong  những tác phẩm Dương Hùng Cường để lại  đời là BUỒN VUI PHI TRƯỜNG viết về
cuộc sống của những người lính Không Quân ở  những phi trường quân sự.

-----
 Ðạo Cù TRẦN TAM TIỆP

đã từ trần ở Paris.
 ----

Đạo  diễn HOÀNG  VĨNH LỘC 
 Người Tình mất hết chân  tay
Trái tim Hoàng gửi nơi này quê hương.
Sài Gòn Bến Cũ mù sương
Nhớ ơi Vĩnh Lộc trên đường Bô Na.
 Hoàng Vĩnh Lộc bị bắt Tháng Ba năm 1976 trong đợt bọn  Công An Cộng Sản bắt tù những văn nghệ sĩ Sài
 Gòn. HV Lộc bị tù ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu.

Trong số những bộ phim  Hoàng Vĩnh Lộc làm đạo diễn có hai phim nổi tiếng là 
NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG, XIN NHẬN  NƠI NÀY LÀ QUÊ HƯƠNG
 Trở về nhà ở Phú Nhuận, HV Lộc từ trần trong sầu muộn năm 1981.
Vào lúc  gần tối một ngày mùa mưa tôi đến nhà Hoàng Vĩnh Lộc chào anh lần cuối. Hôm nay khi viết
những dòng chữ này, tôi thấy ẩn hiện những hình, những ảnh buổi chiều gần tối năm xưa, tôi ngồi dưới tấm bạt căng
trên bãi cỏ trứơc nhà làm chỗ tiếp khách đến viếng tang, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp  trên tấm bạt, nhìn vào căn nhà nhỏ thấy quan
 tài của anh với mấy ngọn nến nhỏ leo lét.

 Tôi nhìn thấy Hoàng Vĩnh Lộc lần đầu vào một buổi chiều năm 1952. Lúc ba, bốn giờ chiều, nắng vừa dìu dịu, tôi đứng trên vỉa hè đường Bô-na, trước Hàng Ăn Kim Hoa, cạnh rạp Xi-nê Casino de Saigon, thấy Hoàng Vĩnh Lộc đến trên chiếc xe Peugeot Mui Trần, thường  được gọi là xe Peugeot 203 Decapotable. Chiều ấy  HV Lộc bận toàn đồ trắng, chiếc xe anh đi cũng  mầu trắng. Năm 1952 HV Lộc đóng vai chính trong phim BẾN CŨ, phim mầu, của AnPha Thái Thúc Nha. Phim chưa chiếu, anh đã được coi là một jeune premier của Ðiện Ảnh Sài Gòn.
 Tôi nhớ  mãi hình ảnh ấy của Hoàng Vĩnh Lộc buổi chiều nắng vàng năm 1952 trên đường Bô-na; đã  60 mùa thu lá bay, tôi vẫn nhớ. Năm xưa ấy trên  đường Bô-na, Sài Gòn, Hoàng Vĩnh Lộc 30 tuổi, tôi 20.

-----
Nhà văn HIẾU CHÂN NGUYỄN HOẠT
Trăng Nước Ðồng Nai vui Tỵ Bái
Chí Hòa lao ngục thở hơi tàn.
La Khê Công Tử Hiếu Chân
Nói hay Ðừng vẳng cung đàn Liêu Trai.
 Những  năm 1956, 1957, Nhà Văn Nguyễn Họat viết truyện dài TRĂNG NƯỚC ÐỒNG NAI trên Nhật báo TỰ DO.

Sau đó anh viết truyện  Tỵ Bái, dịch truyện LIÊU TRAI, giữ mục Nói hay Ðừng trên Nhật báo TỰ DO. 
 Anh bị bắt cùng với các văn nghệ sĩ Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Duy Trác và bị khép vào cùng một nhóm gọi là nhóm Biệt Kích Cầm Bút. Anh từ trần trong đêm ở Nhà Tù Chí Hòa năm 1988.
 Quê  ngọai của anh Nguyễn Họat ở làng La Khê ngay  bên thị xã Hà Ðông. Có năm anh dậy học ở
Trường Tư Thục Tự Ðức trong thị xã, tôi là học trò của anh.
-----

 Phạm Thiên ThưAi về  hỏi Phạm Thiên Thư
Ngày xưa Hoàng Thị bây chừ ở đâu?
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau
Sao nhau tình nghĩa qua cầu gió bay?
Hẹn nhau tròn cuộc nhau này
Sao nhau cánh dzế chồn lây đổi mầu?
Ðã buồn Từ Thức lấm đầu,
Lại thương Hoàng Thị về đâu bây giờ?
Những năm 980, Phạm Thiên Thư làm thơ Chào Mừng Sinh Nhật  Hồ Chủ Tịch. Ông làm nhiều Thơ ca tụng cuộc
 sống trong sáng của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa và gọi loại Thơ này là Thơ Hồng.

 hoanghaithuy